Vắc xin cho trẻ em: nhưng biến cố bất lợi nghiệm trọng hiếm

Một nghiên cứu tổng quan tài liệu mới đã cho thấy lợi ích của các vắc xin tiêm thường quy cho trẻ em lớn hơn nguy cơ của các biến cố bất lợi hiếm. Các tác giả cho biết, mặc dù một vài vắc xin có liên quan với các biến cố lợi nghiêm trọng nhưng những biến cố này là rất hiếm.

Các nhà nghiên cứu đã thực hiện một nghiên cứu tổng quan tài liệu về tính an toàn của các vắc xin được khuyến cáo thường quy cho trẻ từ 6 tuổi trở xuống và tìm thấy nhiều bằng chứng có độ tin cậy cao cho thấy vắc xin phòng ngừa các bệnh sởi, quai bị, rubella không liên quan đến sự khởi phát bệnh tự kỷ trên trẻ em; các vắc xin ngừa MMR; bạch hầu-uốn ván-ho gà (DTap); uốn ván – bạch hầu (Td); Hib và vắc xin ngừa viêm gan B không liên quan đến bệnh ung thư máu ở trẻ em.

Các tác giả kết luận “những phát hiện của chúng tôi có thể làm giảm sự lo ngại của phụ huynh, những người cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và những người chăm sóc sức khỏe”.

Bà Margaret A. Maglione,   Thạc sĩ về chính sách công cộng, thuộc Liên đoàn RAND,   Santa Monica,   California,   và cộng sự đã xác nhận tính an toàn của các vắc xin DTaP, viêm gan A, viêm gan B, Hib, cúm (vắc xin bất hoạt và vắc xin sống giảm độc lực), viêm màng não mủ (cộng hợp và polysaccharide), rotavirus và thủy đậu. Kết quả nghiên cứu đã được xuất bản trực tuyến trên tạp chí Nhi khoa ngày 01/07/2014.

Cơ quan chất lượng và nghiên cứu chăm sóc sức khỏe đặt hàng công trình nghiên cứu tổng quan này nhằm nhận diện bất kỳ lỗ hổng nào từ các bằng chứng liên quan đến tính an toàn của vắc xin được khuyến cáo thường quy cho trẻ.

Những lo ngại đã khiến một vài phụ huynh từ chối cho trẻ sử dụng vắc xin và dẫn đến sự quay trở lại của một số bệnh như sởi và ho gà.

Các tác giả đã xem xét 67 kết quả nghiên cứu trong nghiên cứu tổng quan. Dữ liệu được thu từ nhiều nguồn bao gồm Pubmed, các bản tuyên bố của Hội đồng tư vấn về thực hành miễn dịch, tờ rơi, gói thông tin của nhà sản xuất và báo cáo năm 2011 của Viện Y khoa về tính an toàn của vắc xin.

Các nghiên cứu được lựa chọn xem xét là những nghiên cứu có sử dụng hệ thống giám sát chủ động và cơ chế tự kiểm soát. Ngoài ra, các nghiên cứu đưa ra được các bằng chứng có độ tin cậy cao (các nghiên cứu chuyên sâu hơn cũng không thể thay đổi được kết luận), trung bình (các nghiên cứu chuyên sâu hơn ít có khả năng thay đổi được kết luận), thấp (các nghiên cứu chuyên sâu hơn có thể thay đổi được kết luận) và không đủ (không có bằng chứng hoặc bằng chứng không thể đưa ra kết luận) cũng được đưa vào phân tích.

Các bằng chứng cho thấy mối liên quan cao giữa vắc xin ngừa MMR và động kinh; vắc xin ngừa thủy đậu với những biến chứng trên các đối tượng bị suy giảm miễn dịch,  mối liên quan trung bình giữa vắc xin ngừa rotavirus với chứng lồng ruột mặc dù những trường hợp này rất hiếm. Ví dụ, một nghiên cứu dịch tể quy mô lớn tại Hoa Kỳ không tìm thấy mối liên quan giữa vắc xin ngừa rotavirus và chứng lồng ruột nhưng một phân tích khác gần đây của chương trình theo dõi tính an toàn miễn dịch nhanh của các vắc xin sau khi được cấp phép của Hoa Kỳ chứng minh được mối liên quan của cả 2 vắc xin Rotateq (Merck) và Rotarix (GSK) với chứng lồng ruột trong thời gian ngắn. Tỷ suất mắc được tính toán là 1.1 – 1.5 trường hợp trên 100.000 liều đối với Rotateq và 5.1 trường hợp trên 100.000 liều đối với Rotarix.

Các tác giả cho biết hạn chế của nghiên cứu tổng quan này chính là hầu hết các nghiên cứu được lựa chọn đã không nghiên cứu hoặc nhận diện các yếu tố nguy cơ của các biến cố bất lợi và mức độ nghiêm trọng của các biến cố bất lợi được báo cáo không đồng nhất.

Trong một bài viết đi kèm, bác sĩ Carrie  Byington thuộc khoa Nhi, trường đại học Utah, thành phố Salt Lake phát biểu rằng sự tự tin của các bác sĩ lâm sàng là rất quan trọng trong việc đảm bảo niềm tin của phụ huynh. “Phụ huynh tin tưởng bác sĩ của con họ là nguồn cung cấp thông tin tốt nhất về tính an toàn của vắc xin hơn so với các viên chức chính phủ, thành viên gia đình, hoặc các nhân vật có danh tiếng”.

“Các nhà lâm sàng có thể kiểm tra tính chính xác của dữ liệu từ báo cáo của Viện Y khoa và báo cáo của Maglione và cộng sự để gia tăng sự tự tin của họ đối với tính an toàn của vắc xin và sự ủng hộ của họ đối với vắc xin. Một cách lý tưởng, sự tự tin của người cung cấp thông tin đối với tính an toàn của vắc xin sẽ gia tăng sự tự tin của gia đình đối tượng và gia tăng tỷ suất chủng ngừa của trẻ, đảm bảo sự an toàn sức khỏe cho quốc gia”.

Nghiên cứu được tài trợ bởi Cơ quan chất lượng và nghiên cứu chăm sóc sức khỏe, Khoa dịch vụ sức khỏe và con người Hoa Kỳ. Các tác giả không có bất kỳ xung đột tài chính nào. Phí xuất bản được hỗ trợ bởi quỹ HA và Edna Benning; Trung tâm khoa học chuyển tiếp nâng cao quốc gia thuộc trung tâm sức khỏe quốc gia; Bác sĩ Byington sở hữu tài sản trí tuệ và hưởng các quyền lợi của Công ty BioFire diagnostics.

 

Nguồn: Childhood vaccines: serious Adverse Events Rare. Marcia Frellick, www.medscape.com/viewarticle/827631, 11st Sep 2014.

Người dịch: Tường Vy, Tổ Thử Nghiệm Lâm Sàng, Viện Pasteur Tp.HCM